BÁO CÁO THƯỜNG NIÊN PHÂN BÓN CÀ MAU 2020

TỔNG QUAN NGÀNH PHÂN BÓN THẾ GIỚI VÀ PHÂN BÓN VIỆT NAM 2020 - TRIỂN VỌNG NGÀNH PHÂN BÓN NĂM 2021

TỔNG QUAN NGÀNH phân BÓN THẾ GIỚI NĂM 2020

Ngành phân bón thế giới năm 2020 ít nhiều chịu ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19. Nhu cầu phân bón toàn cầu năm tài chính 2020-2021 ở mức 189,9 triệu tấn, tăng 2.9% (+5.5 triệu tấn) so với năm 2019 (184,4 triệu tấn). Chuỗi cung ứng hàng hóa nông nghiệp toàn cầu năm 2020 ít bị gián đoạn bởi đại dịch Covid-19 so với các hàng hóa khác. Thực phẩm, nông sản và phân bón là những lĩnh vực thiết yếu nên hoạt động sản xuất và vận chuyển hàng hóa không bị gián đoạn trong thời gian đóng cửa. Bên cạnh đó, vận chuyển hàng rời, phương thức vận chuyển chính đối với hàng hóa nông nghiệp, ít bị ảnh hưởng bởi các lệnh hạn chế so với các hình thức vận tải khác.

Theo các đánh giá thống kê cho thấy, nhu cầu phân bón toàn cầu năm 2020 tăng đáng kể do sự kết hợp của các yếu tố thuận lợi như:

  • Phản ứng trước sự gián đoạn trong ngắn hạn, một số quốc gia trên thế giới đã lên kế hoạch hỗ trợ chuỗi cung ứng thực phẩm và nông nghiệp. Hơn 20 quốc gia bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh đã đưa phân bón vào diện hàng hóa thiết yếu, do đó, hoạt động sản xuất và cung ứng mặt hàng phân bón ít bị gián đoạn. Một số quốc gia như Hoa Kỳ, Trung Quốc đã thiết lập các gói viện trợ cho nông dân và các doanh nghiệp nông nghiệp. Pháp, Italy, Anh và Australia thực hiện các biện pháp hỗ trợ để giải quyết tình trạng thiếu lao động, đảm bảo an ninh lương thực.
  • Giá nông sản phục hồi và tình hình thời tiết thuận lợi hơn ở các khu vực canh tác chính. Giá các mặt hàng nông sản ở mức cao như lúa gạo, lúa mì, ngô, đậu tương,… đã tạo điều kiện cho người nông dân đầu tư phân bón và chăm bón cây trồng. Cùng với đó, đồng nội tệ suy yếu ở các nước xuất khẩu nông sản lớn giúp nông sản xuất khẩu được giá cao hơn, kích thích nhu cầu chăm bón cho cây trồng, gia tăng tiêu thụ phân bón.

Trong bối cảnh năm 2020, khu vực Nam Á được xem là động lực tăng trưởng quan trọng cho nhu cầu tiêu thụ phân bón toàn cầu năm 2020. Trong khi đó, Đông Á và Tây Á là những khu vực bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch Covid-19, phải đối mặt với tình trạng sụt giảm nhu cầu phân bón.

TỔNG QUAN NGÀNH phân BÓN việt nam NĂM 2020

Năm 2020, Việt Nam đã phải đối mặt với hai làn sóng dịch Covid-19 trên diện rộng. Với các biện pháp phòng chống dịch hiệu quả từ Chính phủ và sự hợp tác xuất phân bón nội địa nào phải đóng cửa hoặc tạm dừng hoạt động. Cùng với đó, phân bón được Chính phủ xếp vào nhóm hàng hóa thiết yếu, do đó, chuỗi cung ứng phân bón trong nước không bị gián đoạn vì vấn đề dịch bệnh.

Tính đến tháng 11/2020, sản xuất các loại phân bón trong nước đều tăng so với cùng kỳ năm 2019: Phân Urê đạt khoảng 2,19 triệu tấn tăng 7,3 %, phân NPK đạt khoảng 2,64 triệu tấn, tăng 3,5 % và phân DAP đạt 339,4 nghìn tấn, tăng 3,3%. Xuất nhập khẩu phân bón tăng mạnh bất chấp tình hình gián đoạn chuỗi cung ứng và logistics. Tuy nhu cầu tiêu thụ phân bón trong nước năm 2020 bị ảnh hưởng bởi diễn biến thời tiết cực đoan nhưng nhìn chung kết quả kinh doanh các doanh nghiệp đầu ngành đều tăng trưởng đáng kể. (Theo BNEWS/TTXVN )

Bên cạnh đó, năm 2020 thị trường phân bón Việt Nam cũng chứng kiến sự biến động mạnh về giá các loại phân bón, đặc biệt là phân đơn như Urê, DAP, Kali. Hầu hết, các loại phân bón đều giảm về mức đáy vào giữa năm và hồi phục trở lại vào những tháng cuối năm 2020. Trong khi đó, giá phân NPK nội địa ổn định trong suốt năm 2020, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuất phân NPK từ phân đơn được hưởng lợi từ sự chênh lệch giá này.

TRIỂN VỌNG NGÀNH PHÂN BÓN NĂM 2021

Giá phân bón thị trường thế giới dự báo tăng nhẹ trong năm 2021: Sau sự gián đoạn trong ngắn hạn năm 2020, nhu cầu phân bón được dự báo tăng tốc vào năm 2021. Theo dự báo của Hiệp hội Phân bón thế giới (IFA), nhu cầu tiêu thụ phân bón toàn cầu năm 2021 dự kiến đạt 194,9 triệu tấn chất dinh dưỡng, tăng 1,8% so với năm 2020. Sự phục hồi trong năm tài chính 2021 cũng sẽ được thúc đẩy bởi N (+2,4 triệu tấn), trong khi P2O5 và K2O sẽ chỉ phục hồi một phần (+1,2 triệu tấn cho P2O5 và +1,0 triệu tấn cho K2O). Nhu cầu tiêu thụ tăng nhanh kéo giá phân bón thế giới tăng trong năm 2021: Giá phân Urê dự kiến tăng ~3,0%, giá phân DAP dự kiến tiếp tục tăng nhẹ ~2,6%, giá phân Kali được dự báo tăng cao hơn ở mức +3,6% trong năm 2021. Năng lực sản xuất Urê sẽ tăng đáng kể vào năm 2021, với mức tăng trưởng vừa phải. Năm 2021, giá Urê dự báo sẽ tăng khoảng 3% so với năm 2020. Năng lực sản xuất Phosphate thành phẩm trên toàn cầu dự kiến sẽ tăng 14%, từ 98 triệu tấn năm 2019 lên 112 triệu tấn sản phẩm vào năm 2024. Giá DAP dự kiến sẽ tăng nhẹ vào năm 2020, sau đó sẽ tăng khoảng 3% vào năm 2021. Nguồn cung cấp MOP toàn cầu sẽ đạt 93,2 triệu tấn vào năm 2024.

Tiêu thụ phân Urê dự báo ổn định tăng 0,5%, phân Kali tăng 2,4% và phân bón khác tăng 10,3%. AgroMonitor dự báo, tổng nhu cầu tiêu thụ phân bón của cả nước trong năm 2021 sẽ đạt khoảng 11,1 triệu tấn, tăng 2,59% so với năm 2020. Tổng nhu cầu phân bón (Urê, DAP, Kali, NPK) cho lúa tại ĐBSCL khoảng 1,8-2 triệu tấn, trong đó: (1) Nhu cầu cho lúa trong vụ Đông Xuân, Hè Thu chiếm 80%, còn lại 20% vụ Thu Đông - vụ Mùa. (2) Nhu cầu đối với Urê, NPK chiếm tỷ trọng lớn 35-37%, tiếp theo là DAP, Kali với tỷ trọng 15% và 13%.

MỞ RỘNG THƯƠNG HIỆU TỪ “ĐẠM CÀ MAU” SANG “PHÂN BÓN CÀ MAU”

Ngày 20/10/2020, Công ty Cổ phần Phân bón Dầu khí Cà Mau (PVCFC) chính thức mở rộng tên thương hiệu từ “Đạm Cà Mau” sang “Phân Bón Cà Mau”. Đây là bước chuyển mình đột phá của PVCFC, và một lần nữa PVCFC khẳng định vị thế thương hiệu trên thị trường phân bón Việt Nam và khu vực, định vị bước tiến vững vàng vươn tới tầm nhìn và giá trị mới ở tương lai.

Được thành lập năm 2011, PVCFC tự hào là nhà sản xuất phân bón Urê hạt đục hàng đầu và duy nhất tại Việt Nam. Sau 5 năm đi vào hoạt động, sản phẩm mang thương hiệu “Đạm Cà Mau - Hạt ngọc mùa vàng” đã trở thành lựa chọn số 1 đối với bà con nông dân khu vực ĐBSCL, cũng như được tin dùng ngày càng rộng rãi ở các khu vực khác tại thị trường nội địa. Không dừng ở lại đó, thương hiệu Đạm Cà Mau tiếp tục mở rộng thị trường ra nước ngoài như: Campuchia, Philippines, Thái Lan, Bangladesh… và cả các thị trường khó tính như Nhật Bản, Hàn Quốc, Brazil.

Với định hướng chiến lược và mục tiêu phát triển rõ ràng, thương hiệu “Đạm Cà Mau - Hạt ngọc mùa vàng” đã dần khẳng định vị thế của mình tại Việt Nam và khu vực, góp phần quan trọng vào việc bình ổn thị trường phân bón và đảm bảo an ninh lương thực Quốc gia. Trong tương lai, PVCFC sẽ tiếp tục đầu tư cho công tác nghiên cứu phát triển, từng bước cho ra đời các dòng sản phẩm mới theo hướng hiệu quả, thân thiện với môi trường vì một nền nông nghiệp Việt Nam phát triển bền vững.

Năm 2020 - PVCFC đánh dấu cột mốc kỷ niệm 10 năm thành lập Công ty, đồng thời ghi dấu ấn đáng nhớ trong việc thay đổi và mở rộng thương hiệu. Ngày 20/10/2020, PVCFC chính thức mở rộng tên thương hiệu từ “Đạm Cà Mau” sang “Phân Bón Cà Mau”. Đây là bước chuyển mình đột phá của PVCFC, và một lần nữa PVCFC khẳng định vị thế thương hiệu trên thị trường phân bón Việt Nam và khu vực, định vị bước tiến vững vàng vươn tới tầm nhìn và giá trị mới ở tương lai.

Như vậy, đã gần một thập kỷ trôi qua kể từ khi thương hiệu Đạm Cà Mau chính thức có mặt trên thị trường phân bón Việt Nam, trở thành thương hiệu Quốc gia dẫn đầu trong ngành với hệ sinh thái sản phẩm dịch vụ đa dạng và ngày càng phát triển. Trong bối cảnh hiện tại, việc mở rộng tên thương hiệu từ “Đạm Cà Mau” sang “Phân Bón Cà Mau” là hướng đi cần thiết, để tham gia vào các phân khúc thị trường nông nghiệp nói chung và phân bón nói riêng.

Về nhận diện thương hiệu, cụm logo Phân Bón Cà Mau giữ nguyên toàn bộ phần biểu tượng, chỉ thay đổi phần tên trong logo từ “Đạm Cà Mau” sang “Phân Bón Cà Mau”. Tuy nhiên, ý nghĩa tượng trưng của logo vẫn có sự kế thừa và phát triển: Dựa trên ý nghĩa hài hòa gồm Cây - Đất - Trời, tạo thành kết cấu Thiên - Địa - Nhân bền vững và chặt chẽ, thể hiện sự kết nối sâu sắc giữa Phân Bón Cà Mau với nông dân, nông thôn và nông nghiệp để tiếp tục phát triển mạnh mẽ tới một nền nông nghiệp bền vững. Hình tượng logo giàu ý nghĩa là một phần không thể thiếu trong câu chuyện thương hiệu, lan tỏa sứ mệnh cung cấp giải pháp toàn diện về dinh dưỡng cho cây trồng của Phân Bón Cà Mau, đem đến những giá trị cần thiết cho bà con.

Về khẩu hiệu (slogan), tiếp tục sử dụng “Hạt ngọc mùa vàng” với câu chuyện thương hiệu rộng mở và ấn tượng về sứ mệnh đem đến “ngàn mùa vàng” giá trị cho nền nông nghiệp Việt Nam nhờ bộ sản phẩm Phân Bón Cà Mau chất lượng như những “hạt ngọc” nhiều sắc màu.

Năm 2020 đã tạo ra nhiều phép thử cho các doanh nghiệp nói chung, Phân Bón Cà Mau nói riêng, nếu không đủ bản lĩnh thì khó lòng trụ vững trước thách thức. Gánh vác sứ mệnh phụng sự nông nghiệp Việt Nam, PCVFC không ngừng nỗ lực để tiếp tục chinh phục thêm nhiều mục tiêu mới. Trong tương lai, PVCFC sẽ tiếp tục đưa ra thị trường dòng sản phẩm phân bón hữu cơ chất lượng cao nhằm phục vụ nhu cầu sản xuất nông nghiệp hữu cơ của bà con nông dân. Đây được coi là bước đi cụ thể nhằm thực hiện tầm nhìn chiến lược của Phân Bón Cà Mau trở thành nhà cung cấp các giải pháp dinh dưỡng cho cây trồng và đa dạng hóa sản phẩm phân bón gồm cả phân bón vô cơ và hữu cơ. Theo đó, PVCFC sẽ tập trung vào sản xuất phân bón hữu cơ chất lượng cao, hữu cơ khoáng, hữu cơ khả dụng và hữu cơ sạch như các dòng sản phẩm phân hữu cơ của Nhật Bản.

Khép lại hành trình 10 năm hình thành, phát triển và cống hiến, Phân Bón Cà Mau - Hạt ngọc mùa vàng chính thức bắt đầu một chặng đường mới rộng mở hơn, với sứ mệnh và trách nhiệm to lớn hơn, cao cả hơn và cũng hứa hẹn nhiều thành công hơn.

VỊ THẾ CỦA PHÂN BÓN CÀ MAU VÀ CÁC YẾU TỐ TẠO ĐỘNG LỰC PHÁT TRIỂN

Vị thế của Phân Bón Cà Mau trong ngành phân bón Việt Nam

Sau 10 năm thành lập và phát triển, đến nay, PBCM đã tạo dựng và duy trì vị thế nhất định trong ngành phân bón Việt Nam. Với tổng sản lượng sản xuất và kinh doanh năm 2020 đạt 1.008.360,525 tấn, PBCM chiếm tỷ lệ hơn 10% thị phần nội địa với nhu cầu tiêu thụ bình quân 11 triệu tấn/năm. Những năm gần đây, tốc độ tiêu thụ sản phẩm tại PBCM bình quân tăng trưởng 9,12%/năm.

Nhìn chung, về sản phẩm Urê, ước tính tỷ trọng tiêu thụ sản phẩm trong nước 3 năm qua bình quân đạt 35% quy mô toàn quốc; về Kali, ước tính 3 năm qua bình quân thị phần đạt 10% quy mô toàn quốc. Đặc biệt, với việc đưa nhà máy NPK đi vào hoạt động trong thời gian tới, PBCM đặt ra mục tiêu chiếm 8% thị phần NPK toàn quốc trong 5 năm tới. Đây sẽ là một trong những mũi nhọn ưu tiên trong định hướng phát triển của Công ty trong chiến lược trung và dài hạn.

Phạm vi hoạt động của PVCFC cả trong nước và quốc tế, trong đó mảng thị trường nội địa là ưu tiên hàng đầu. Để giải quyết bài toán dư thừa nguồn cung trong nước, PVCFC chủ động mở rộng và tham gia sâu rộng vào thị trường quốc tế, ưu tiên cho thị trường Đông Nam Á, Nam Á và từng bước xâm nhập các thị trường tiềm năng khu vực Bắc Mỹ. 3 năm gần đây, tốc độ phát triển thị trường qua kênh xuất khẩu có sự cải thiện cả về lượng và chất, qua đó giúp PVCFC hiện thực hóa chiến lược kinh doanh tổng thể, cân đối hài hòa bài toán sản xuất, kinh doanh, tồn kho sản phẩm tại thị trường nội địa và thị trường quốc tế; duy trì dòng tiền ổn định và tinh giảm tối đa chi phí kinh doanh, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường.

Với đầu mối trên 100 đại lý cấp 1, hơn 13.000 đại lý cấp 2, trong đó hơn 2/3 số lượng này tập trung tại các tỉnh phía Nam. Ngoài ra, với hệ thống kho trung chuyển ở các khu vực giúp duy trì và cung ứng kịp thời hàng hóa cho nông dân, nhất là khi mùa vụ bước vào giai đoạn cao điểm.

Tiếp nối và kế thừa thành tựu từ thương hiệu “Đạm Cà Mau - Hạt ngọc mùa vàng”, PBCM không ngừng nỗ lực và phấn đấu hơn nữa với quyết tâm đột phá triển khai chiến lược thương hiệu mới “Phân Bón Cà Mau” nhằm định vị mục tiêu đưa PBCM trở thành Công ty hàng đầu tại Việt Nam và khu vực Đông Nam Á trong chuỗi sản xuất kinh doanh phân bón - hóa chất; cung cấp giá trị dinh dưỡng cho cây trồng thông qua nhiều giải pháp đồng bộ mang tính chiến lược.

PHÂN TÍCH SWOT

Việc cung cấp khí cho Nhà máy Đạm Cà Mau thực hiện thông qua hợp đồng mua bán dài hạn ký với đối tác nước ngoài và thực hiện theo quy định cụ thể của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, trong đó giá mua bán tính theo giá quốc tế và phù hợp với thông lệ chung trên thị trường thế giới. Nhìn chung, với công thức giá bán thống nhất giữa các bên và trong điều kiện hiện tại, ít nhất trong giai đoạn trung hạn, việc cung ứng khí đốt cho PVCFC vẫn tiến hành liên tục, ổn định, điều này giúp Nhà máy Đạm Cà Mau tập trung tối ưu khâu sản xuất, nâng cao công suất hoạt động và phát huy tối đa lợi thế theo quy mô với mục tiêu giảm giá thành sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường.

Thời gian qua, nói riêng về thị trường Urê, PVCFC là một trong những đơn vị tiên phong đi đầu trong việc định vị, dẫn dắt thị trường này cả dưới góc độ về thị phần, thương hiệu, chính sách bán hàng và khả năng điều chỉnh linh hoạt giá bán trong từng thời kỳ, cả ngắn, trung và dài hạn. Ý thức được vai trò, sứ mệnh là nhà sản xuất, cung ứng giải pháp dinh dưỡng cho cây trồng, PVCFC chú trọng đến vị thế của mình trong ngành. Trong vấn đề cạnh tranh, PVCFC bảo đảm được khả năng cạnh tranh với các nhà sản xuất trong nước; từng bước cạnh tranh tốt với sản phẩm nhập khẩu. Duy trì khoảng cách giá bán nhất định so với sản phẩm cùng loại, không tham gia vào cuộc chiến về giá theo hướng tiêu cực, suy giảm nội lực và sức mạnh của doanh nghiệp. Thời gian tới, với việc ra đời và đi vào của dự án Nhà máy NPK, PVCFC phấn đấu không ngừng phát huy tốt vai trò này trong phân khúc thị trường NPK để định vị trở thành doanh nghiệp sản xuất kinh doanh danh tiếng tại Việt Nam và xa hơn là khu vực Đông Nam Á.

Để khai thác hơn nữa tiềm năng từ HTPP hiện hữu, PVCFC đã và đang tăng cường áp dụng công nghệ thông tin phục vụ quản trị bán hàng, chuỗi cung ứng, phân phối toàn quốc. Những năm gần đây, PVCFC tăng cường áp dụng và triển khai dự án Công nghệ thông tin lớn như: Hệ thống quản trị ERP, Big Data, DMS, CMS với nhiều cấp độ khác nhau nhằm khai thác hiệu quả thông tin, dữ liệu từ thị trường, nhà phân phối thông qua việc thường xuyên cập nhật nhu cầu, khả năng tiêu thụ, tình hình tồn kho của hệ thống, từ đó không ngừng cải thiện khả năng cung cấp, đáp ứng kịp thời nhu cầu từ HTPP, tiết giảm chi phí trung gian, từng bước tiến tới mô hình sản xuất kinh doanh “Just in Time” tiên tiến, nhất quán, liên tục dựa trên mô hình và bài học tham khảo thành công từ các tập đoàn đa ngành trên thế giới.

Để giảm giá thành sản phẩm, ngoài việc giảm giá thành sản xuất đơn vị, PVCFC chủ động thiết lập bộ máy bán hàng tinh gọn, giảm thiểu tối đa đầu mối kinh doanh, phân phối từ nhà sản xuất đến người tiêu dùng.

Nói riêng, ngay tại chính đầu mối kinh doanh của PVCFC, hệ thống phân phối vùng dựa trên cơ cấu tổ chức gọn nhẹ nhất có thể, ưu tiên sử dụng đội ngũ bán hàng người địa phương, am hiểu thị trường, ngành hàng, văn hóa vùng miền… nhưng mục tiêu cao nhất phải đảm bảo hoàn thành - đó là mục tiêu kinh doanh hàng tháng/quý/năm được giao chỉ tiêu cụ thể tới từng khu vực, đội ngũ quản lý và từng nhân viên. Điều này, một mặt đòi hỏi phát huy vai trò chủ động, năng động, sáng tạo của đội ngũ quản lý các cấp; đồng thời động viên, khích lệ nhân viên bán hàng theo định hướng kết quả và thù lao tương xứng với nỗ lực phấn đấu của nhân viên. Trên hết, việc thiết lập hệ thống bán hàng tinh gọn phải bảo đảm cập nhật diễn biến kịp thời từ thị trường/đối thủ cạnh tranh; đáp ứng nhu cầu đa dạng, đòi hỏi khắt khe từ hệ thống phân phối và người tiêu dùng.

Do nhiều nguyên nhân, hiện tại, giá thành sản xuất Urê của PVCFC so với một số nước trên thế giới vẫn khá cao. Chi phí giá thành ở một số nước dưới 200$/tấn do họ có lợi thế về tài nguyên, chi phí đầu tư ít hơn. Nhiều nước trong số này hiện diện ở khu vực Trung Đông, Yuzhnyy, Baltic có lợi thế sở hữu về nguồn năng lượng dầu mỏ, khí đốt và có ngành công nghiệp dầu khí phát triển. Tại Châu Á, một số nhà máy ở các nước Indonesia, Malaysia, Trung Quốc cũng có chi phí sản xuất cạnh tranh và thấp hơn so với chi phí của PVCFC. Do đó, việc cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu của PVCFC sẽ gặp bất lợi nhất định so với các nhà sản xuất ở các nước này. Bên cạnh đó, một số thời điểm, do có chi phí thấp hơn, do đó nguy cơ xâm nhập từ nguồn hàng giá rẻ từ các khu vực trên về thị trường Việt Nam khiến áp lực cạnh tranh cao hơn cho PVCFC và các đơn vị sản xuất trong ngành.

Tại Việt Nam, năng lực vận tải thủy nội địa chiếm tỷ trọng nhỏ so với vận tải đường sắt khoảng 80% tổng lưu lượng hàng hóa toàn quốc. Hoạt động logistic trong chuỗi cung ứng, phân phối hàng hóa phân bón từ Nhà máy Đạm Cà Mau đến nhiều thị trường trong nước thực hiện bằng đa phương thức (đường thủy, đường bộ) làm phát sinh chi phí logistic không hề nhỏ, giao động từ 8%-15% chi phí giá bán sản phẩm, tùy thuộc từng thời điểm cụ thể. Trong trung và dài hạn, việc này chưa thể sớm khắc phục và phụ thuộc vào nhiều đầu mối trung gian, từ đó ảnh hưởng nhất định đến khâu phân phối sản phẩm của PVCFC đến tay người tiêu dùng ở các thị trường trong nước.

Đặc thù trong lĩnh vực SXKD phân bón ở Việt Nam tồn tại một đặc điểm dễ nhận thấy là: Ở các phân khúc phổ biến, đại trà có rất nhiều dòng sản phẩm, nhiều chủng loại phân bón với công thức khác nhau và do nhiều nhà phân phối đảm nhận nên áp lực cạnh tranh cao, nhất là thường xuyên diễn ra cuộc chiến về giá bán trong nội tại kênh phân phối cũng như giữa kênh phân phối của PVCFC với các kênh phân phối của đối thủ cạnh tranh. Để giải quyết bài toán cạnh tranh, nhất là giảm hàng tồn kho, đa dạng hóa sản phẩm, PVCFC triển khai nghiên cứu, đánh giá thị trường và cho ra đời sản phẩm phân bón mới với giá trị gia tăng cao hơn, ít cạnh tranh hơn so với sản phẩm đại trà. Tuy nhiên, sau một thời gian kinh doanh, vẫn xảy ra tình trạng, sản phẩm mới dù tiêu thụ được và được người tiêu dùng chấp nhận, song quy mô tuyệt đối của phân khúc thị trường đó vẫn còn nhỏ và chưa phát huy được hết tiềm năng, nội lực sản xuất của PVCFC. Nhìn chung, một số dòng sản phẩm mới bước đầu đáp ứng được bài toán về doanh thu, lợi nhuận. Song bên cạnh đó, vẫn tồn tại một số dòng sản phẩm có hiệu quả về lợi nhuận nhưng sản lượng còn thấp và chưa đạt yêu cầu đề ra. Do đó, thời gian tới, PVCFC cần giải quyết bài toán này để nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh doanh của đơn vị.

Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là thị trường tiêu thụ phân bón lớn nhất cả nước với nhu cầu tiêu thụ Urê từ nông dân đạt 680.000-720.000 tấn/năm; phân DAP từ 360.000-390.000 tấn/năm; Phân Kali từ 220.000-260.000 tấn/năm; phân NPK từ 800.000-1.100.000 tấn/năm và các phân bón khác từ 1.000.000-1.200.000 tấn/năm.

Nhà máy Đạm Cà Mau nằm ở ĐBSCL là thị trường có tiềm năng phát triển nông nghiệp, thủy hải sản lớn nhất cả nước, trong đó có mặt hàng sản xuất - xuất khẩu lúa gạo, cây ăn trái từ lâu vốn là thế mạnh chính của vùng. Hàng năm diện tích canh tác lúa của vùng ổn định ở mức 1,6 triệu ha với 2 vụ chính Đông Xuân và Hè Thu, chưa kể vụ 3 với diện tích từ 650.000-750.000 ha hoạt động theo định hướng xuất khẩu (gạo xuất khẩu của ĐBSCL chiếm 80% tổng lượng xuất khẩu gạo cả nước hàng năm từ 6-7 triệu tấn trị giá hơn 3 tỷ USD/năm). Có thể thấy, với quy mô thị phần Urê chiếm bình quân 60%-65% thị phần tại ĐBSCL, đây là một lợi thế mà nhiều đơn vị sản xuất trong ngành khó có thể đạt được. 2 năm gần đây, giá lúa thu mua của nông dân và giá gạo xuất khẩu được cải thiện đáng kể giúp bà con nông dân yên tâm canh tác và đầu tư nhiều hơn cho cây trồng này, qua đó giúp PVCFC duy trì thị phần ổn định các mặt hàng Urê, Kali, NPK, sản phẩm mới.

Khu vực Đông Nam Bộ và Tây Nguyên (ĐNB&TN) là thị trường tiêu thụ phân bón đầy tiềm năng cho các cây công nghiệp, trong đó nhu cầu tiêu thụ Urê từ 180.000-220.000 tấn/năm; phân NPK từ 1.100.000-1.200.000 tấn/năm; phân Kali từ 130.000-160.000 tấn/năm; Phân DAP từ 40.000-50.000 tấn/năm và phân bón khác từ 500.000-650.000 tấn/năm.

Theo thống kê, phần lớn diện tích cây cà phê, cao su ở Việt Nam tập trung ở khu vực các tỉnh ĐNB và TN, trong đó riêng cà phê tập trung tại 4 tỉnh khu vực Tây Nguyên gồm Đắk Lắk, Đắk Nông, Gia Lai, Lâm Đồng với hơn 600.000 ha. Cao su với hơn 930.000 ha tập trung ở các tỉnh vùng Đông Nam Bộ. Ngoài ra, các cây trồng khác như tiêu, điều, chè, sắn… Nhìn chung, nhu cầu về tiêu thụ phân NPK, SA, Kali khá lớn ở 2 khu vực này. Hiện, giá cafe, cao su đang từng bước phục hồi là nhân tố quan trọng định hướng nhu cầu các dòng sản phẩm phân bón của nông dân. PVCFC đang tập trung nguồn lực tận dụng mở rộng kênh phân phối, cung cấp sản phẩm khác có giá trị như sản phẩm mới, phân bón hữu cơ, phân NPK, Kali để khai thác phân khúc cây trồng có giá trị cao của vùng.

Những năm qua, Campuchia luôn là thị trường mục tiêu có vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển của PVCFC với sản lượng tiêu thụ phân bón ngày càng tăng, góp phần cải thiện doanh số bán hàng, gia tăng lợi nhuận cho Công ty. Về tiềm năng thị trường, nhu cầu phân bón Urê hàng năm từ 380.000-410.000 tấn/năm; phân DAP từ 250.000-280.000 tấn/năm; phân NPK từ 260.000-300.000 tấn/năm, chưa kể các chủng loại phân bón khác thì việc khai thác tốt cơ hội thị trường này tạo tiền đề quan trọng cho PVCFC chinh phục, mở rộng thị phần các sản phẩm thương hiệu “Phân Bón Cà Mau” với khách hàng tại Campuchia.

Dự báo nhu cầu tiêu thụ phân bón năm 2021 tại Việt Nam tăng so với năm 2020 do sự mở rộng hoạt động sản xuất nông nghiệp, các Nhà máy NPK tăng công suất hoạt động; tình hình thời tiết thuận lợi hơn và giá nông sản chủ lực cải thiện. Về mặt hàng Urê năm 2021, ước tính nhu cầu cả nước là 2,16 triệu tấn, tăng thêm 113.000 tấn hay tăng 5,5% so với năm 2020 với sự cải thiện nhu cầu từ tiêu dùng trực tiếp và nhu cầu làm nguyên liệu của các nhà máy NPK. Sự cải thiện nhu cầu nhận được sự hỗ trợ của giá nông sản trong nước, nhất là lúa gạo duy trì mặt bằng giá cao cả từ lúa thu mua của các hộ dân cũng như giá gạo xuất khẩu của Việt Nam đang ở mức cao so với các năm trước; Thị trường DAP chủ yếu dùng cho mục đích tiêu thụ nội địa, hơn 50% nhu cầu sử dụng và còn lại dùng chế biến cho các nhà máy NPK. Năm 2020, ước tính nhu cầu tiêu thụ toàn quốc là 887.000 tấn, trong đó riêng Tây Nam Bộ chiếm 45% nhu cầu cả nước; nhà máy NPK chiếm 46% nhu cầu; Về Kali, dự báo nhu cầu tiêu thụ Kali năm 2021 đạt 913.000 tấn, tăng 5% so với năm 2020 để đáp ứng nhu cầu nội địa tăng ở một số khu vực, đáng chú ý là nhu cầu cải thiện hơn từ khối các nhà sản xuất NPK.

Lúa gạo

Giá gạo xuất khẩu Việt Nam năm 2020 bình quân cả năm là 496 $/tấn cao nhất trong hơn 10 năm trở lại đây và diễn biến tháng 1/2021 có thời điểm vượt ngưỡng 500$/tấn đối với loại gạo trắng 5% tấm cho thấy triển vọng về nhu cầu nhập khẩu gạo của thế giới vẫn rất cao. Dự báo của USDA về triển vọng giá gạo năm 2021 vẫn ở mức tích cực dù so với giá gạo một số nước như Ấn Độ, Thái Lan thì giá gạo Việt Nam sẽ giảm tính cạnh tranh.

Cao su

Giá cao su thiên nhiên thế giới đang bắt đầu bước vào giai đoạn phục hồi sau thời kỳ khủng hoảng bởi dịch Covid 19 với nhu cầu tăng từ các ngành công nghiệp chế biến xe hơi. Ngoài ra, nhu cầu phục vụ chế biến cho ngành y tế tăng rất cao, nhất là nhu cầu về găng tay vệ sinh. Ngoài ra, do sản lượng cao su thiên nhiên từ các nước Đông Nam Á năm 2021 tụt giảm sẽ là yếu tố hỗ trợ cho giá cao su thế giới trong năm 2021.

Cà phê

Những năm gần đây, giá cà phê xuất khẩu Việt Nam liên tục giảm nhưng bắt đầu có tín hiệu phục hồi từ năm 2020 dù tốc độ phục hồi chậm, trong đó giá cà phê robusta tăng do mưa lũ ở Việt Nam làm gián đoạn vụ thu hoạch. Với 95% cà phê Robusta chiếm 25% thị phần toàn cầu và diện tích canh tác ổn định hơn 600.000 ha, niên vụ 2020 ước thu hoạch đạt 31,3 triệu bao (loại 60 kg/bao) và dự báo sản lượng năm 2021 giảm về mức 29,9 triệu bao nhưng về giá bán sẽ phục hồi hơn trong năm 2021.

Theo Fitch Solutions, dự báo mức chi tiêu tiêu dùng tại Việt Nam đối với hàng hóa thiết yếu cơ bản trong năm 2021 tiếp tục tăng so với năm 2020, theo đó, mức chi tiêu cho lượng thực phẩm chế biến tăng 15,2%; Gạo, ngũ cốc tăng 15,1%; hoa quả, đồ uống tăng 15,6%; rau tăng 5,3%; đường tăng 9,4%... Với đà tăng trưởng về xu hướng tiêu dùng nội địa như trên tạo nền tảng quan trọng hỗ trợ cho thị trường nông sản Việt Nam trong thời gian tới.

Nhìn chung, dự báo về nguyên liệu đầu vào của ngành sản xuất Urê sẽ tăng hơn so với năm 2020. Điều này sẽ tác động vào chi phí giá thành sản xuất và ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của ngành, nhất là so với giá của các nước xung quanh khu vực như Trung Quốc, Indonesia, Malaysia và xa hơn là các nước có lợi thế cạnh tranh lớn như Trung Đông, Baltic, Yuzhnyy.

Về Kali, hiện nguồn nhập chủ yếu đến từ các nguồn cung chính của thế giới như Canada, Nga, Belarus, Trung Quốc, Israel. Thống kế số liệu cho thấy, lượng nhập khẩu Kali từ các thị trường trên chiếm tỷ trọng hơn 90% tổng nguồn cung nhập khẩu Kali vào Việt Nam. Những năm qua, các tập đoàn phân bón hàng đầu thế giới như Niutrient, Mosaic, Canpotex, Agrium, BPC, Uralkali, K+S… đang tìm cách giảm nguồn cung Kali trên thị trường thế giới. Điều này, về lâu dài sẽ tác động đến giá nhập khẩu vào Việt Nam.

Về DAP, do khả năng sản xuất trong nước chưa đáp ứng đủ nhu cầu nên Việt Nam vẫn phải nhập khẩu lượng lớn DAP từ nước ngoài. Tác động từ giá DAP thế giới, nhất là Trung Quốc vốn chiếm hơn 70% nhu cầu DAP nhập khẩu vào Việt Nam. Hiện nguồn cung DAP nội địa ở Trung Quốc bị thắt chặt và giá DAP có xu hướng đẩy giá lên, do đó, nhiều khả năng xu hướng giá DAP năm 2021 sẽ tiếp tục duy trì ở mức cao đáng kể so với giá bình quân năm 2020.

Với xu hướng tăng giá cước vận chuyển đường biển trên thế giới trong các quý gần đây cộng với đà phục hồi của giá dầu thế giới thì việc giá xăng dầu trong nước tăng kéo theo giá cước vận chuyển nội địa tăng. Vì vậy, viễn cảnh về giá cước vận chuyển hàng hóa nói chung và ngành phân bón nói riêng trong nước sẽ tăng từ 10-15% trong năm 2021 là hoàn toàn có khả năng xảy ra, ảnh hưởng đến giá bán nội địa, giảm lợi nhuận của các đơn vị trong ngành trong bối cảnh mức tăng của giá cước vận chuyển cao hơn so với mức tăng giá bán đầu ra ở các thị trường nội địa. Ngoài ra, việc giá cước vận tải biển thế giới tăng kìm hãm nhu cầu mua mới từ thị trường quốc tế, giảm khả năng xuất khẩu của PVCFC trên thị trường thế giới.

Việc Chính phủ ban hành Nghị quyết số 159/NĐ-CP ngày 28/10/2020 trình Quốc hội phê nghị quyết về thuế VAT với mặt hàng phân bón là một tín hiệu đáng mừng nhưng Ủy ban thường vụ Quốc hội kết luận các cơ quan liên quan cần có đánh giá, bổ sung thêm thông tin để đưa vào chương trình nghị sự tại kỳ họp tới vào tháng 03/2021. Do luật này chừng nào chưa được Quốc hội thông qua thì PVCFC và nhiều đơn vị sản xuất kinh doanh trong ngành vẫn phải chịu các chi phí đầu vào khá lớn, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của đơn vị.

Năm 2020 chứng kiến tác động lớn do ảnh hưởng từ dịch Covid 19 đến nền kinh tế thế giới và Việt Nam. Nói riêng trong ngành SXKD phân bón, dịch Covid 19 tác động đến cả cung và cầu của ngành. Về cầu, tác động rõ nhất đến người tiêu dùng là giảm nhu cầu tiêu thụ hàng hóa do thu nhập giảm; nhiều mặt hàng nông sản bị ứ đọng tại các cửa khẩu, kho ngoại quan; nhiều hợp đồng xuất khẩu nông sản từ Việt Nam ra thị trường thế giới bị hủy bỏ gây rủi ro lớn cho các nhà cung cấp, nhà xuất khẩu và nhiều doanh nghiệp. Về phía cung, nhiều dự án sản xuất chậm triển khai, gây tốn kém chi phí; một số thời điểm, hoạt động xuất nhập khẩu phân bón bị dừng lại do quy định về kiểm soát dịch bệnh của các Chính phủ nước ngoài; tình trạng thiếu nhân công diễn ra phổ biến ở nhiều hải cảng; công tác vận chuyển, lưu thông hàng hóa phân bón bị đình trệ. Một số lô hàng xuất khẩu bị chậm lại, gây phát sinh các chi phí không cần thiết.

ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN TRONG TRUNG VÀ DÀI HẠN

Trong giai đoạn trung và dài hạn từ 5-10 năm tới, Phân Bón Cà Mau tập trung hướng tới các mục tiêu lớn, mang tính chiến lược và định hướng tổng thể cho các hoạt động của đơn vị trong tình hình mới.

Tầm nhìn, sứ mệnh, giá trị cốt lõi

Về tầm nhìn, PVCFC phấn đấu trở thành doanh nghiệp hàng đầu Việt Nam và khu vực Đông Nam Á trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh phân bón; Về sứ mệnh, PVCFC không ngừng góp phần bảo đảm nguồn cung phân bón và an toàn lương thực thông qua vai trò tiên phong cung cấp giải pháp dinh dưỡng cho cây trồng; PVCFC cam kết hướng tới các giá trị cốt lõi chính gồm “Tiên phong”, “Trách nhiệm”, “Ân cần”, “Hài hòa”, coi đây là kim chỉ nam chi phối mọi hoạt động trong quá trình sản xuất kinh doanh.

thị trường mục tiêu

Các thị trường mục tiêu chiến lược của PVCFC trong thời gian tới tập trung vào khu vực ĐBSCL, ĐNB&TN, Campuchia. Ngoài các thị trường này, PVCFC chủ động mở rộng, khai thác, xâm nhập các thị trường trong nước ở khu vực Miền Trung, Miền Bắc và thị trường Đông Nam Á, Nam Á, Mỹ la-tinh.

chỉ tiêu tăng trưởng

Phấn đấu tăng trưởng sản lượng kinh doanh các dòng sản phẩm phân bón từ 6-10%/năm, tùy theo cơ cấu sản phẩm cụ thể và tỷ trọng từng sản phẩm nhằm bảo đảm hoàn thành mục tiêu doanh thu và lợi nhuận. Về doanh thu, cải thiện tốc độ tăng trưởng từ 5-10%/năm và phấn đấu đến năm 2025, PVCFC là một trong 5 đơn vị có quy mô kinh doanh hàng đầu Việt Nam về doanh thu.

chỉ tiêu thị phần

Duy trì thị phần phân bón trong nước tối thiểu 10%/năm trên quy mô toàn quốc. Về Urê, duy trì tỷ lệ thị phần nội địa từ 30%-35%/năm; Về NPK, phấn đấu đáp ứng từ 5%-10% thị phần trong nước và tập trung chiếm lĩnh thị trường mục tiêu trong nước ít nhất 20% thị trường. Về các dòng sản phẩm phân bón khác: Phấn đấu đáp ứng từ 5%-15% tùy theo phân khúc sản phẩm cụ thể.

cơ cấu sản phẩm

Tiếp tục duy trì sản xuất, kinh doanh, phân phối sản phẩm cốt lõi Urê tại thị trường trong nước, chủ động triển khai kênh xuất khẩu hợp lý và bảo đảm cân đối cung cầu nội địa ở mức hợp lý. Về NPK, PVCFC phấn đấu gia tăng sản lượng tiêu thụ tại thị trường trong nước và thị trường chiến lược ở Campuchia. Bên cạnh đó, PVCFC từng bước mở rộng danh mục và khai thác phân khúc phân bón hữu cơ. Ngoài ra, PVCFC nghiên cứu, khai thác thêm mảng xuất nhập khẩu để tổ chức nhập khẩu các nguồn hàng phân bón DAP, Kali, NPK, SA.

phát triển thương hiệu

Việc PVCFC chính thức mở rộng thương hiệu từ “Đạm Cà Mau” sang “Phân Bón Cà Mau” là một bước tiến quan trọng ghi dấu sự trưởng thành và không ngừng lớn mạnh của PVCFC trên suốt hành trình 10 năm phát triển. Điều đó, không chỉ góp phần nâng cao vị thế thương hiệu Phân Bón Cà Mau trên thị trường trong nước, gia tăng lợi thế cạnh tranh, khẳng định niềm tin của khách hàng khi lựa chọn sản phẩm Phân Bón Cà Mau mà còn góp phần mở ra nhiều cơ hội hợp tác phát triển tiềm năng cho PVCFC trên chặng đường tương lai.

phát triển kênh phân phối

Tiếp tục kiện toàn, phát triển và mở rộng HTPP các cấp, định hướng giai đoạn 2021-2025, tăng trưởng HTPP cấp 1 gấp 2 lần so với hiện tại và tăng trưởng HTPP cấp 2 hàng năm đạt 5%/năm và mục tiêu ít nhất có 15.000 đại lý cấp 2. Về thị trường mục tiêu, trọng tâm vẫn là ưu tiêu phát triển, kiện toàn HTPP các cấp, song song với việc phát triển mô hình HTPP vào công tác bán hàng, nhằm vươn lên làm chủ thị trường và cạnh tranh thắng lợi với các đối thủ khác.

R&D

Đẩy mạnh công tác nghiên cứu và phát triển (R&D) nhằm đưa ra các dòng sản phẩm phân bón mới có giá trị cao, giá thành cạnh tranh và đáp ứng nhu cầu của nông dân và hệ thống phân phối. Về giải pháp, PVCFC ưu tiên tìm kiếm, lựa chọn, mạnh dạn đi đầu trong việc phối hợp với các tổ chức trong và ngoài nước có uy tín nhằm mục tiêu chế tạo sản phẩm/giải pháp dinh dưỡng có hàm lượng chất xám cao, đáp ứng đòi hỏi của thị trường và khách hàng trong tương lai.

M&A

Căn cứ vào nguồn lực nội tại, PVCFC nghiên cứu và triển khai thí điểm mua bán, sáp nhập một số dự án đầu tư có tính khả thi cao nhằm đa dạng hóa chuỗi cung ứng giá trị của đơn vị, ưu tiên tối đa cho thị trường trong nước. Mục tiêu M&A, ngoài việc đáp ứng mục tiêu tài chính, kinh doanh còn đảm bảo tính định hướng về cạnh tranh, mở rộng phát triển thương hiệu, kiểm soát khâu phân phối và trên hết bảo đảm duy trì khả năng cạnh tranh dài hạn của PVCFC trên thị trường trong 10 - 20 năm tới.